Quá trình thành lập Hải quân Đế quốc Nhật Bản (1869) Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Ký tự Kanji: "Đại Nhật Bản Đế quốc Hải Quân"

Từ năm 1868, Nhật hoàng Minh Trị sau khi nắm quyền tiếp tục công cuộc cải cách công nghiệp hóa và quân sự hóa nước Nhật nhằm ngăn ngừa Hoa Kỳ và các thế lực châu Âu lấn át họ. Ngày 17 tháng 1-1868, Binh bộ tỉnh (兵部省) được thành lập, với Tomomi Iwakura, Tadayoshi Shimazu và Hoàng tử Akihito Komatsu là các Bí thư Thứ Nhất.

Chiếc tàu chiến Ryūjō (Long Tương) là kỳ hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho đến năm 1881.

Ngày 26 tháng 3-1868, buổi duyệt binh Hải quân đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản được tổ chức tại vịnh Osaka, với sự tham gia của 6 tàu chiến từ các lực lượng hải quân của 6 phiên Saga, Chōshū, Satsuma, Kurume, KumamotoHiroshima. Chúng có tải trọng tổng cộng là 2252 tấn, cộng lại vẫn còn nhỏ hơn tải trọng của một chiếc tàu ngoại quốc duy nhất (của Hải quân Pháp) cùng tham gia duyệt binh. Vào năm sau, tháng 7-1869, Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chính thức thành lập, hai tháng sau trận chiến cuối cùng của Chiến tranh Mậu Thìn.

Tháng 7-1869, các lực lượng hải quân của các lãnh địa bị giải tán, và 11 chiếc tàu của các phiên đó được sáp nhập chung vào 7 chiếc còn lại của lực lượng hải quân Mạc phủ Tokugawa để tạo nên nòng cốt của Hải quân Đế quốc Nhật Bản mới. Tháng 2-1872, Lực lượng quân sự được tách thành Lục quân tỉnh (陸軍省) và Hải quân tỉnh (海軍省). Tháng 10-1873, Kaishu Katsu trở thành Quốc vụ Đại thần Hải quân tỉnh. Chính quyền mới thảo một kế hoạch đầy tham vọng xây dựng một lực lượng hải quân gồm 200 tàu chiến tổ chức thành 10 hạm đội. Không đầy một năm sau kế hoạch này bị bỏ dở vì không có tiềm lực.

Sự hỗ trợ của Anh

Học viên pháo binh Hải quân trên chiếc Ryūjō, chung quanh huấn luyện viên người Anh, Trung úy Horse (ホース中尉), đầu năm 1871.

Trong những năm 1870 và 1880, Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn còn là một lực lượng hải quân phòng thủ ven biển, cho dù chính quyền Minh Trị liên tục hiện đại hóa nó. Tàu Jo Sho Maru (sau đó đặt tên lại là Ryūjō Maru), do Thomas Glover trang bị, được hạ thủy tại Aberdeen, Scotland ngày 27 tháng 3-1869. Năm 1870, một sắc lệnh của Đế quốc quy định rằng Hải quân Hoàng gia của Vương quốc Anh sẽ là kiểu mẫu để phát triển thay vì Hà Lan.[5]

Từ tháng 9-1870, Trung úy Horse người Anh, nguyên là huấn luyện viên về pháo binh tại phiên Saga trong giai đoạn Mạc mạt, được giao trách nhiệm hướng dẫn thực tập pháo binh trên chiếc Ryūjō[5]. Năm 1871, Hải quân tỉnh quyết định gửi 16 học viên ra nước ngoài để huấn luyện về các môn khoa học hải quân (14 người đến Anh Quốc, 2 đến Hoa Kỳ), trong số đó có Togo Heihachiro[5]. Một phái đoàn gồm 34 thành viên Hải quân Anh, do Trung tá Archibald Lucius Douglas dẫn đầu, đã đến thăm Nhật vào năm 1873 và lưu lại ở đó hai năm[5]. Sau đó, Trung tá L.P. Willan được thuê năm 1879 để huấn luyện học viên hải quân.

Những can thiệp ra nước ngoài đầu tiên (Đài Loan 1874, Triều Tiên 1875-76)

Hải quân Nhật đổ bộ vào Đảo Giang Hoa, Triều Tiên từ chiếc Unyo trong sự kiện Đảo Giang Hoa năm 1875.Hải quân Đế quốc Nhật Bản, ở Pusan, trên đường đến Đảo Giang Hoa, Triều Tiên, ngày 16 tháng 1 năm 1876. Có 2 chiến thuyền (Nisshin, Moshun) (Mãnh Xuân), 3 tàu quân vận, và một tàu khách chở sứ giả do Kiyotaka Kuroda chỉ huy.

Trong năm 1873, kế hoạch xâm lược bán đảo Triều Tiên (Chinh hàn luận của Takamori Saigo) suýt nữa đã bị bỏ qua do một quyết định từ chính quyền trung ương ở Tokyo. Vào năm 1874, cuộc viễn chinh Đài Loan là sự can thiệp ra nước ngoài đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Lục quân Đế quốc Nhật Bản mới.

Nhiều vụ can thiệp vào bán đảo Triều Tiên liên tục diễn ra từ năm 1875 đến 1876, bắt đầu bằng sự kiện Đảo Giang Hoa (Ganghwa) do chiếc pháo hạm Unyo (Vân Ưng) của Nhật khiêu khích, dẫn tới sự đổ bộ một lực lượng lớn quân Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Kết quả của nó là việc ký kết Hiệp ước Giang Hoa, đánh dấu việc mở cửa thông thương với nước ngoài chính thức của Triều Tiên, và là ví dụ đầu tiên về chủ nghĩa can thiệp và sử dụng chiến thuật Hiệp ước bất bình đẳng theo kiểu phương Tây.

Tuy nhiên những cuộc nổi loạn trong nước, như Cuộc nổi loạn Saga (1874) và đặc biệt là Cuộc nổi loạn Satsuma (1877), diễn ra sau đó đã buộc chính phủ phải tập trung vào mặt trận trên đất liền. Chính sách hải quân, như mô tả của khẩu hiệu Thủ thế Quốc phòng (守勢国防), tập trung vào việc bảo vệ bờ biển gồm một lực lượng quân dự bị (thành lập với sự hỗ trợ của Sứ mệnh quân sự của Pháp tại Nhật), và Hải quân duyên hải, dẫn tới một mô hình tổ chức quân sự theo nguyên lý Lục chủ hải tòng (陸主海従, nghĩa là "lục quân là chính, hải quân là phụ").

Vào năm 1878, tàu tuần dương Seiki của Nhật đã vượt biển tới châu Âu với một hải đoàn gồm toàn người Nhật[3].

Tiếp tục hiện đại hóa (thập niên 1870)

Tàu hộ tống có giáp Kongō (1877).

Những tàu như Fusō (Phù Tang), Kongō (1877)Hiei (1877) đều được đóng tại những xưởng đóng tàu của Anh chuyên dành cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Những công ty xây dựng tư nhân như IshikawajimaKawasaki cũng xuất hiện trong khoảng thời gian này.

Vào năm 1883 hai chiến tàu chiến lớn được đặt hàng tại những xưởng đóng tàu Anh quốc. NaniwaTakachiho là những chiếc có trọng lượng 3.650 tấn. Chúng có tốc độ lên đến 18 knot (33 km/h) và được trang bị giáp trên sàn tàu dày từ 2 đến 3 inch và hai khẩu Krupp 10,2-in (260 mm). Kiến trúc sư hàng hải Sasō Sachū đã thiết kế những chiếc này mô phỏng theo kiểu tàu tuần dương phòng hộ nhưng với những chi tiết tiên tiến hơn. Tuy nhiên, đã có một cuộc chạy đua vũ trang với Trung Quốc, nước này đã tự trang bị hai thiết giáp hạm 7.335 tấn do Đức đóng (chiếc Đinh ViễnTrấn Viễn). Do không thể đương đầu với hạm đội của Trung Quốc với chỉ hai chiếc tuần dương hiện đại của mình, Nhật Bản đã viện đến sự giúp đỡ của Pháp để xây dựng một hạm đội lớn, hiện đại để có thể giành được ưu thế trong những cuộc xung đột sắp tới.

Ảnh hưởng của "Jeune École" Pháp (thập niên 1880)

Chiếc Matsushima, tàu đô đốc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản do Pháp đóng tại Hải chiến Hoàng Hải (1894).Pháo Canet 12,6 in trên chiếc Matsushima.

Trong suốt thập niên 1880, nước Pháp có ảnh hưởng mạnh nhất, nhờ chính sách "Jeune École" ("trường phái nhỏ") chuộng những tàu chiến nhỏ, nhanh, đặc biệt là dùng tuần dương hạmtàu ngư lôi chống lại những tàu chiến lớn hơn. Có lẽ việc lựa chọn nước Pháp cũng chịu ảnh hưởng từ Bộ trưởng Hải quân Nhật, thời đó là Takeaki Enomoto (Bộ trưởng Hải quân 1880-1885), một đồng minh cũ của người Pháp trong Chiến tranh Mậu Thìn.

Triều đình Minh Trị đã đưa ra dự luật Mở rộng Hải quân lần thứ nhất vào năm 1882, yêu cầu xây dựng 48 chiến thuyền, trong đó 22 chiếc là tàu ngư lôi. Những chiến thắng của Hải quân Pháp trước Trung Hoa trong Chiến tranh Trung-Pháp vào năm 1883-1885 cho thấy tiềm năng của tàu ngư lôi, một phương cách rất hấp dẫn đối với nguồn tài nguyên hạn chế của nước Nhật. Vào năm 1885, khẩu hiệu mới của Hải quân là Kaikoku Nippon (海国日本, Hải quốc Nhật Bản, "Quốc gia Hàng hải Nhật Bản").

Vào năm 1885, kỹ sư hàng đầu về Hải quân của Pháp Émile Bertin được mời về trong bốn năm để củng cố Hải quân Nhật và chỉ đạo việc xây dựng xưởng vũ khí KureSasebo. Ông đã phát triển loại tuần dương hạm Sanseikan; ba chiếc với trang bị vũ khí duy nhất một pháo cực mạnh Canet 12,6 in (320 mm). Cùng lúc đó, Beritin cũng giám sát việc xây dựng hơn 20 chiếc khác. Nhờ có họ mà Nhật Bản lần đầu tiên đã xây dựng được lực lượng hải quân hiện đại thực sự đầu tiên. Điều này cho phép Nhật Bản chiếm được ưu thế trong việc tạo nên những chiếc tàu lớn, một số được nhập khẩu, còn một số được đóng trong nước tại xưởng vũ khí Yokosuka:

  • 3 tuần dương hạm: MatsushimaItsukushima 4.700 tấn, đóng ở Pháp, và Hashidate, đóng ở Yokosuka.
  • 3 chiếc tàu chiến ven biển 4.278 tấn.
  • 2 tuần dương hạm nhỏ: Chiyoda, một tuần dương hạm nhỏ 2.439 tấn đóng ở Anh, và Yaeyama, 1.800 tấn, đóng ở Yokosuka.
  • 1 tàu khu trục nhỏ, Takao 1.600 tấn, đóng ở Yokosuka.
  • 1 tàu khu trục: Chishima 726 tấn, đóng ở Pháp.
  • 16 tàu ngư lôi, mỗi chiếc 54 tấn, do hãng Companie du Creusot chế tạo ở Pháp năm 1888, lắp ráp tại Nhật Bản.

Thời kỳ này cũng cho phép Nhật Bản "nắm lấy những công nghệ mới mang tính cách mạng để trang bị cho ngư lôi, tàu ngư lôi và thủy lôi, những thứ mà người Pháp có lẽ là những người giỏi nhất thế giới thời kỳ này"[6]. Nhật Bản đã chế được ngư lôi đầu tiên vào năm 1884, và thành lập "Trung tâm Huấn luyện Ngư lôi" ở Yakosuka vào năm 1886.

Những chiếc tàu này, được đặt hàng trong năm tài chính 1885 và 1886, là những hợp đồng lớn cuối cùng với Pháp. Vụ đắm tàu Unebi không giải thích được trên đường từ Pháp đến Nhật vào tháng 12 năm 1886, đã tạo ra sự rạn nứt về ngoại giao và nghi ngờ về khả năng thiết kế của người Pháp.

Dựa trên công nghiệp đóng tàu Anh Quốc

Tàu ngư lôi Kotaka (1887)

Nhật Bản tiếp tục nhờ đến sự hỗ trợ của Anh Quốc, với yêu cầu về một loại tàu ngư lôi mang tính cách mạng, chiếc Kotaka năm 1887, con tàu được coi là mẫu tàu khu trục thiết kế hiệu quả đầu tiên[1]; cùng với việc đặt mua tàu Yoshino, được đóng tại công ty Armstrong Whitworth tại Elswick, Newcastle upon Tyne, là chiếc tàu tuần dương nhanh nhất thế giới thời điểm đó khi được hạ thủy năm 1892[7]. Năm 1889, Nhật Bản đặt mua loại tàu Chiyoda được đóng trên sông Clyde, đây là một loại tuần dương hạm bọc thép[8].

Sau năm 1882 (cho tới 1918, với chuyến thăm của phái đoàn quân sự Pháp tới Nhật Bản), Hải Quân Đế quốc Nhật Bản ngừng phụ thuộc vào các chuyên gia huấn luyện nước ngoài. Họ tự sản xuất thuốc súng nâu cho riêng mình năm 1886, đến năm 1892, một trong những sĩ quan của họ đã chế tạo ra loại thuốc súng có sức công phá lớn, thuốc súng Shimose.[3].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hải quân Đế quốc Nhật Bản http://www.combinedfleet.com/ http://homepage2.nifty.com/nishidah/e/index.htm http://www.samurai-archives.com/mth.html http://wgordon.web.wesleyan.edu/kamikaze/museums/e... http://wgordon.web.wesleyan.edu/kamikaze/writings/... http://s-mizoe.hp.infoseek.co.jp/m160.html http://www2.open.ed.jp/real/15655/01.mp2 http://www.jda.go.jp/JMSDF/info/event/cm_p/16cm.ht... http://www2.memenet.or.jp/kinugawa/ship/2300.htm http://www12.plala.or.jp/k-hakuyo/index_ship/ship_...